Abū ʿ Ali al-Hasan ibn al-Hasan ibn al-Haytham (tiếng Ả Rập: أبو علي, الحسن بن الحسن بن الهيثم), thường được biết đến là ibn al-Haytham (tiếng Ả Rập: ابن الهيثم), được Latin hóa là Alhazen hoặc Alhacen là nhà toán học, nhà thiên văn học, nhà triết học Ả Rập[7]. Ông có nhiều đóng góp cho sự phát triển của khoa học Hồi giáo nói riêng và khoa học nói chung.
Những đóng góp chính
Quang học
Năm 1000, Alhazen nghiên cứu hiện tương phản xạ và khúc xạ[8]. Năm 1021, Alhazen viết một cuốn sách về quang học (đó chính là Cuốn sách về quang học), và ông đưa một loạt các lập luận về sự nhìn cũng như kết luận rằng ánh sáng phải phát ra từ vật truyền đến mắtngười[9]. Ông phát triển một phương pháp khoa học nhấn mạnh việc thực nghiệm để chứng minh điều đó. Ông chủ trì một nghiên cứu khoa học về tâm lý học thị giác và là nhà khoa học đầu tiên cho rằng sự nhìn diễn ra trong não bộ chứ không phải trong mắt. Ông chỉ ra rằng các thí nghiệm cá nhân có ảnh hưởng đến những gì con người nhìn thấy và cách mà họ nhìn thấy và sự nhìn cũng như tri giác là chủ quan. Điều này đã đi ngược hoàn toàn quan điểm của Plato cho rằng ánh sáng phát ra từ mắt. Do đó Alhazen cho rằng ánh sáng phải di chuyển với vận tốc hữu hạn,[10][11] và tốc độ ánh sáng cũng biến đổi, giảm đi trong những vật liệu đặc hơn.[12] Ông cũng nghĩ rằng ánh sáng là một loại chất, lan truyền trên quãng đường đòi hỏi thời gian, ngay cả khi chúng ta không cảm nhận được[13]. Ông cũng cho người ta thấy khả năng phóng đại của các kính. Alhazen được mệnh danh là cha đẻ của quang học.
Alhazen đã giải thích cho định lý mà ngày nay được gọi là định lý Wilson: "Nếu (p-1)!+1 chia hết cho p thì p là số nguyên tố" là điều hiển nhiên. Vì khi đó p sẽ nguyên tố cùng nhau với các số từ 1 đến p-1, do đó nó không có ước nào khác ngoài 1 và chính nó. Xét đa thức g(x)= (x-1)*(x-2)*....*(x-(p-1)) và f(x)= g(x)-(xp-1-1)
Chiều ngược lại ta phải chứng minh "nếu p là số nguyên tố thì (p-1)!+1 chia hết cho p".
Ông cũng là người nghiên cứu đầu tiên về không gian ba chiều. Alhazen còn nhận ra rằng mọi số hoàn chỉnh chẵn đều phải có dạng 2n−1(2n − 1) khi 2n − 1 là số nguyên tố, nhưng ông không thể chứng minh được kết quả này.[15]
^Charles H Carman, John Hendrix biên tập (2012). “2: Classical optics and the perspectivae traditions leading to the Renaissance”. Renaissance Theories of Vision. Ashgate Publishing, Ltd. tr. 11. ISBN9781409486510. Ibn al-Haytham's groundbreaking studies in optics, including his research in catoptrics and dioptrics (respectively the sciences investigating the principles and instruments pertaining to the reflection and refraction of light), were principally gathered in his monumental opus: Kitåb al-manåóir (The Optics; De Aspectibus or Perspectivae; composed between 1028 CE and 1038 CE).
^Anne Rooney (2012). “Ibn Al-Haytham”. The History of Physics. The Rosen Publishing Group. tr. 39. ISBN9781448873715. As a rigorous experimental physicist, he is sometimes credited with inventing the scientific method.
^David B. Baker biên tập (2012). The Oxford Handbook of the History of Psychology: Global Perspectives. Oxford University Press. tr. 449. ISBN9780195366556. As shown earlier, Ibn al-Haytham was among the first scholars to experiment with animal psychology.
^Science, Medicine and Technology, Ahmad Dallal, The Oxford History of Islam, ed. John L. Esposito, (Oxford University Press, 1999), 192;"Ibn al-Haytham (d. 1039), known in the West as Alhazan, was a leading Arab mathematician, astronomer, and physicist. His optical compendium, Kitab al-Manazir, is the greatest medieval work on optics".
^Lauginie, P (2005). “Measuring: Why? How? What?”(PDF). Proceedings of the 8th International History, Philosophy, Sociology & Science Teaching Conference. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2008.
^Toomer, G. J. (tháng 12 năm 1964), “Review: Ibn al-Haythams Weg zur Physik by Matthias Schramm”, Isis, 55 (4): 463–465 [463–4], doi:10.1086/349914Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)