Tỉnh của Việt Nam Cộng hòa là đơn vị hành chính lớn nhất dưới cấp Quốc gia. Dưới cấp tỉnh là quận, không phân biệt đô thị hay nông thôn.
Vào thời Đệ Nhất Cộng hòa, Chính phủ còn dùng đơn vị Trung phần và Nam phần về mặt pháp lý và lập bốn Tòa Đại biểu Chính phủ đặt tại các thành phố và thị xã trung tâm của bốn khu vực:
Sau năm 1963 thì hai danh từ Trung phần và Nam phần chỉ ấn định địa lý.
Lịch sử
Khi tiếp thu quyền lực từ người Pháp năm 1954 thì khu vực phía Nam Vĩ tuyến 17, kể cả năm tỉnh thuộc Hoàng triều Cương thổ[2], tổng cộng có 32 tỉnh. Tỉnh nhỏ nhất dưới 500 km², lớn nhất hơn 20.000 km². Dân số các tỉnh cũng chênh lệch nhau khá nhiều: có tỉnh dưới 30.000 dân, tỉnh đông nhất hơn một triệu dân.[3]
Thời Đệ Nhứt Cộng hòa
Không lâu sau khi lên chấp chính, bắt đầu từ năm 1955, Chính quyền Đệ Nhất Cộng hòa xúc tiến cải tổ cho nền hành chính thêm đồng đều và dễ kiểm soát hơn, phân chia lại địa giới, biến đổi diện tích và dân số của nhiều tỉnh.
Đầu năm 1956, Chính phủ thành lập thêm các tỉnh Tam Cần (19 tháng 1 năm 1955), Mộc Hóa (27 tháng 1 năm 1955), Phong Thạnh (27 tháng 1 năm 1955), Cà Mau (18 tháng 2 năm 1955). Bốn tỉnh này tồn tại không được bao lâu thì đổi tên như Mộc Hóa đổi thành Kiến Tường, Phong Thạnh đổi thành Kiến Phong, Cà Mau đổi thành An Xuyên; hay bị sáp nhập vào các tỉnh khác như Tam Cần nhập vào Vĩnh Bình.
Theo sắc lệnh 153-NV ngày 22 tháng 9 năm 1955 của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì Nam phần chia lại thành 22 tỉnh và Đô thành Sài Gòn.
Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 35 tỉnh:
Sau khi nền Đệ Nhất Cộng hòa bị lật đổ thì việc thay đổi phân chia hành chánh giảm bớt tuy vẫn còn thêm bớt một số tỉnh. Đơn vị Trung phần và Nam phần về mặt pháp lý và bốn Tòa Đại biểu Chính phủ cho bốn khu vực:
Lịch trình hình thành các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa 1955-1975
1966-1975
1965
1964
1963
1962
1961
1959
1958
1957
1956
1955
Quảng Trị
Thừa Thiên
Quảng Nam
Quảng Nam
Quảng Tín
Quảng Ngãi
Bình Định
Phú Yên
Khánh Hòa
Ninh Thuận
Bình Thuận
Bình Thuận
Bình Tuy
Kontum
Pleiku
Pleiku
Phú Bổn
Darlac
Darlac
Quảng Đức
Tuyên Đức
Đồng Nai Thượng
Lâm Đồng
Phước Long
Biên Hòa
Biên Hòa
Long Khánh
Bình Long
Thủ Dầu Một
Bình Dương
Phước Tuy
Bà Rịa
Hậu Nghĩa
Gia Định
Gia Định
Tây Ninh
Kiến Tường
Tân An
Long An
Gò Công
Định Tường
Gò Công
Định Tường
Mỹ Tho
Kiến Hòa
Bến Tre
Vĩnh Long
Sa Đéc
một phần tỉnh Vĩnh Long
Sa Đéc
Vĩnh Bình
Trà Vinh
Kiến Phong
Long Xuyên
An Giang
Châu Đốc
Một phần tỉnh An Giang
Châu Đốc
Kiên Giang
Hà Tiên
Rạch Giá
Chương Thiện
Một phần tỉnh Kiên Giang
Thuộc Rạch Giá
Phong Dinh
Cần Thơ
Bạc Liêu
Ba Xuyên
Bạc Liêu
Ba Xuyên
Sóc Trăng
An Xuyên
Cà Mau
1966-1975
1965
1964
1963
1962
1961
1959
1958
1957
1956
1955
Tổ chức
Đệ Nhất Cộng hòa
Tỉnh trưởng là do tổng thống bổ nhiệm, có thể là quân nhân hoặc công chức. Cấp tỉnh không có mô hình cơ quan nghị luận. Tỉnh trưởng có toàn quyền hành pháp, thi hành mệnh lệnh trung ương; riêng ở vùng có dân thiểu số sắc tộc thì có thể gia giảm để thích hợp với tình hình địa phương.
Tỉnh trưởng cũng có quyền bổ nhiệm hội đồng xã và đề cử quận trưởng để tổng thống phái bổ. Nói chung thì tỉnh trưởng trực thuộc phủ tổng thống hoặc thông qua Bộ Nội vụ hay Tòa Đại biểu Chính phủ ở miền đó.[30]
Đệ Nhị Cộng hòa
Đứng đầu tỉnh là Tỉnh trưởng (quân nhân, thường là cấp Trung tá trở lên, hầu hết là cấp Đại tá) và Phó tỉnh trưởng (dân sự). Cả hai do Tổng thống bổ nhiệm và thông qua Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tỉnh trưởng có trách nhiệm trật tự an ninh, soạn ngân sách, và điều hành lực lượng Nhân dân Tự vệ[31] còn Phó tỉnh trưởng có trọng trách hành chánh. Chiếu theo Hiến pháp thời Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam thì người dân có quyền bỏ phiếu chọn Tỉnh trưởng nhưng trong tình trạng chiến tranh không thể tổ chức bầu cử địa phương ở mọi tỉnh được, Điều 65 cho phép Tổng thống nắm quyền bổ nhiệm Tỉnh trưởng.[32]
Trong khi ở cấp trung ương có các Bộ điều hành thì ở cấp tỉnh có các Ty:
Ty Hành chánh: điều hợp các chương trình, tổ chức bầu cử, phát thẻ cử tri, báo cáo với Trung ương;
Ty Cảnh sát Quốc gia: kiểm tra lý lịch, cấp thẻ căn cước;
Ty Thông tin: quảng bá tin tức và chính sách Chính phủ;
Ty Canh nông: trông coi nông nghiệp;
Ty Điền địa: đo đạc đất đai, cấp phát đất cho người định cư;
Ty Tài chánh: kiểm soát chi thu;
Ty Kiến thiết: vẽ mẫu thực hiện các công trình;
Ty Công chánh: thực hiện công trình đào giếng, ống nước máy, cống nước, đắp đường, bắc cầu;
Ty Xã hội: phụ cấp nhu yếu phẩm cho người nghèo, kiểm soát các cơ sở như Cô nhi viện;
Ty Thanh niên: tổ chức các đoàn thể, các chương trình thể dục, thể thao, văn nghệ;
Ty ở cấp tỉnh chấp hành lệnh của Tỉnh trưởng cùng những chỉ thị của Trung ương, tức
các Bộ trưởng. Dưới các ty là phòng hoặc sở.
Tương đương với tỉnh nhưng dưới quy mô nhỏ hơn là các thị xã, đứng đầu là Thị trưởng. Riêng Sài Gòn có Đô trưởng cho Đô thành Sài Gòn.
Ngoài các ty, mỗi tỉnh còn có Hội đồng tỉnh, số lượng nghị viên tùy thuộc vào dân số mỗi tỉnh nhưng tối đa là 30 nghị viên. Hội đồng tỉnh có quyền quyết nghị, kiểm soát và tư vấn.[33]
^Trung tâm hành chính tỉnh Gia Định được đặt tại xã Bình Hòa thuộc quận Gò Vấp
^Do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập năm 1900. Năm 1956 chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể và đến năm 1963 cũng chính quyền này tái lập lại.
^Do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập năm 1900. Năm 1956 chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể và đến năm 1964 cũng chính quyền này tái lập lại.
^Do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập năm 1900. Năm 1956 chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể và đến năm 1966 cũng chính quyền này tái lập lại.
^Trước đó tỉnh này có tên là Long Xuyên do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập năm 1900. Năm 1956 chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên thành An Giang.
^Do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập năm 1920 có tên là tỉnh Rạch Giá. Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa điều chỉnh một phần địa giới và đổi tên thành tỉnh Kiên Giang.
^Do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập năm 1900 với tên gọi là tỉnh Cần Thơ. Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa điều chỉnh một phần địa giới và đổi tên thành tỉnh Phong Dinh.
^Do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập năm 1900. Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa điều chỉnh một phần địa giới thành lập tỉnh Cà Mau, phần còn lại vẫn thuộc tỉnh Bạc Liêu.
^Tháng 3 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tách một phần địa giới của tỉnh Bạc Liêu để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh Cà Mau, tháng 10 cùng năm đổi tên cà mau thành An Xuyên.