Archibald Sayce đã đưa dữ liệu để so sánh khảo nghiệm trong cuốn sách Các Đế chế cổ đại của phương Đông (1884), thêm vào đó các danh sách xuất hiện trong những tác phẩm của Herodotus, Diodorus, Eratosthenes và của các "nhà văn Ả Rập". Tuy nhiên danh sách không xuất hiện trong cuốn sách của Sayce mà được tìm thấy trong cuốn sách Sothis do George Syncellus dành tặng cho Manetho.
Thời đại huyền thoại
Trong các văn bia Palermo, Turin và danh sách vua của Manetho, có những phiên bản tên khác nhau của 8 vị thần này.
Vương triều thứ Nhất bắt đầu từ khoảng năm 3150-2890 trước Công nguyên. (Không có thời gian chính xác để xác định niên đại cho giai đoạn Cổ và Trung vương quốc, và có sự khác biệt lớn trong việc ước lượng Vương triều giữa các nhà Ai Cập học khác nhau)
Thống nhất Ai Cập sau một thời kỳ hỗn loạn khoảng năm 2690 TCN
Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập tồn tại trong thiên niên kỷ thứ Ba trước công nguyên khi Ai Cập đạt đến giai đoạn cực thịnh đầu tiên của nền văn minh cùng với những thành tựu vượt trội (đây là thời điểm đánh dấu giai đoạn đỉnh cao của nền văn minh sông Nile), khoảng thời gian từ Vương triều thứ Ba đến Vương triều thứ Sáu (từ năm 2686-2181 trước Công nguyên). Nhiều nhà Ai Cập học cho rằng cũng có thể bao gồm Vương triều thứ Bảy và 8 vì đây là giai đoạn tập trung quyền lực tại Memphis. Tiếp nối thời kỳ Cổ vương quốc là giai đoạn khủng hoảng chia rẽ và suy giảm văn hóa, các nhà Ai Cập học gọi đấy là thời kỳ chuyển tiếp đầu tiên hoặc thời kỳ đau ốm đầu tiên.
Kinh đô của thời kỳ Cổ Vương quốc đặt tại Memphis, nơi Djoser thiết lập nên triều đình của ông. Thời kỳ Cổ Vương quốc được biết đến nhiều nhất thông qua việc xây dựng các kim tự tháp để chôn cất các pharaon. Thời đại này thường được gọi "thời đại các kim tự tháp".
Vương triều thứ Ba
Vương triều thứ Ba bắt đầu từ năm 2686 tới 2613 TCN.
Vương triều thứ Tư bắt đầu từ 2613 tới 2498 TCN bao gồm các Pharaon đã xây dựng Khu lăng mộ Giza như Khufu (Cheops), Khafra (Chephren), và Menkaura (Mycerinus).
Xây dựng kim tự tháp Meidum và kim tự tháp cong (341 ft/103m từ chân tháp tới đỉnh). Ông cũng được biết tới là người đầu tiên xây dựng kim tự tháp "đúng nghĩa", Kim tự tháp Đỏ. Nhiều giả thiết cho rằng ông được chôn cất tại kim tự tháp đỏ, hoặc giả thiết khác tại kim tự tháp cong. Tại kim tự tháp đỏ đã tìm thấy được bộ xương nhưng không xác định được có phải của ông hay không.
Còn được gọi là Cheops. Xây dựng kim tự tháp vĩ đại tại Giza. Có ghi chép ghi lại rằng Khufu là người thứ Ba trong gia đình nằm quyền, giai đoạn giữa Sneferu và Khufu có thể có một số người anh trai của Khufu nằm quyền trong thời gian ngắn nhưng vì nhiều lý do qua đời.
Nhiều người tin rằng ông là người tạo ra tượng nhân sư tại Giza để tượng niệm người cha quá cố của mình. Ông cũng là người xây dựng kim tự tháp Abu Rawash. Tuy nhiên kim tự tháp này đã bị người La Mã phá hủy.
Được đồng nhất với Netjerkare. Vị pharaoh này được cho là nguồn gốc tạo nên nữ hoàng huyền thoại Nitocris của Herodotus và Manetho.[26] Đôi khi có thể được coi là vị vua đầu tiên của Vương triều 7/8.
Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất
Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2181-2060 TCN) là khoảng thời gian cuối Cổ vương quốc tới đầu thời kỳ Trung vương quốc.
Cổ vương quốc nhanh chóng sụp đổ sau khi Pepi II qua đời. Ông trị vì 94 năm, lâu hơn bất kỳ quốc vương trong lịch sử, và qua đời ở tuổi 100. Những năm cuối Vương triều của ông đã được đánh dấu yếu kém do tuổi tác cao của ông.
Sự thống nhất của hai vương quốc không còn và các lãnh chúa đã phải đối phó với nạn đói.
Khoảng năm 2160 TCN, một triêu đại các vị pharaoh mới đã cố gắng thống nhất Hạ Ai Cập từ kinh đô Herakleopolis Magna của họ. Trong khi đó, một Vương triều khác tại Thebes đã tái thống nhất Thượng Ai Cập và một cuộc đụng độ giữa hai vương triều là điều không thể tránh khỏi.
Khoảng năm 2055 TCN, Mentuhotep II, con trai của pharaoh Intef III đánh bại các vị pharaoh Herakleopolis và thống nhất hai lại vương quốc, mở đầu thời kỳ Trung vương quốc.
Vương triều thứ Bảy và thứ Tám
Vương triều thứ Bảy và 8 bắt đầu từ khoảng năm 2187 tới khoảng năm 2160 TCN. Bao gồm các nhà vị vua cai trị ở Memphis. Bảng này dựa theo danh sách vua Abydos có niên đại từ Vương triều Seti I.
Vương triều thứ Chín cai trị từ năm 2160-2130 TCN. Theo danh sách vua Turin, Vương triều 9 và 10 có tất cả 18 vị vua. Một số hiện nay chưa tìm được tên.
Vương triều thứ Mười một là các lãnh chúa địa phương cai trị khu vực Thượng Ai Cập từ 2134 tới 1991 TCN. Vương triều thứ Mười một có nguồn gốc từ các lãnh chúa Thebes phụng sự các vị vua Vương triều 8, 9 hoặc 10.
Lãnh chúa Thebes phụng sự một vị vua vô danh, sau này được nhiều người cho rằng là vị vua sáng lập Vương triều thứ Mười một.
Những vị vua kế vị Intef Già bắt đầu từ Mentuhotep I đã trở thành những vị vua độc lập ở phía nam và cuối cùng thống nhất Ai Cập vào Vương triều Mentuhotep II.
Chinh phạt Asyut và có thể tiến xa hơn lên đến châu thứ Mười bảy.[30]
Trung vương quốc
Trung vương quốc (2060-1802 TCN) là giai đoạn giữa thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất và thời kỳ chuyển tiếp thứ hai. Ngoài Vương triều thứ Mười hai, một số học giả cho rằng có thể gồm cả Vương triều thứ Mười một, 13 và 14. Giai đoạn Trung vương quốc đã ghi nhận sự mở rộng giao thương ra bên ngoài vương quốc trong thời gian này. Việc mở rộng giao thương đã dẫn tới sự sụp đổ của trung vương quốc, cũng như dẫn tới cuộc xâm lược của người Hyksos.
Vương triều thứ Mười một tiếp tục
Thời kỳ sau của Vương triều thứ Mười một được coi là một phần của trung vương quốc.
Vị Pharaon ít được biết đến và không có mặt trong các danh sách vua sau này; lăng mộ không rõ. Có thể bị lật đổ bởi tể tướng và cũng là người kế vị Amenemhat I.
Vị vua bí ẩn không có mặt trong danh sách vua; lăng mộ không rõ. Chứng thực duy nhất tại Thượng Nubia, có thể là người soán ngôi cuối vương triều 11 hoặc đầu vương triều 12.
Vị vua bí ẩn không có mặt trong danh sách vua; lăng mộ không rõ. Chứng thực duy nhất tại Thượng Nubia, có thể là người soán ngôi cuối vương triều 11 hoặc đầu vương triều 12.
Vị vua bí ẩn không trong có mặt danh sách vua; lăng mộ không rõ. Chứng thực duy nhất tại Thượng Nubia, có thể là người soán ngôi cuối vương triều 11 hoặc đầu vương triều 12.
Vương triều thứ Mười hai
Vương triều thứ Mười hai bắt đầu từ năm 1991 tới 1802 TCN.
Vị vua bí ẩn của Vương triều. Ông là kẻ cướp ngôi hoặc là một trong ba vị vua đầu tiên của Vương triều.
Thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai
Thời kỳ chuyển tiếp thứ hai (1802-1550 trước Công nguyên) là giai đoạn khủng hoảng kéo dài từ cuối thời kỳ trung vương quốc và đến đầu thời kỳ tân vương quốc. Thời kỳ này thường được biết đến với Vương triều thứ Mười lăm của người Hyksos.
Vương triều thứ Mười ba yếu hơn hẳn Vương triều thứ Mười hai, và nó không thể kiểm soát được toàn bộ Ai Cập. Thời điểm bắt đầu Vương triều này là vào khoảng năm 1805 TCN hoặc trong giai đoạn khoảng năm 1710 TCN, gia tộc lãnh chúa địa phương tại Xois nằm trong khu vực đồng bằng phía đông, đã li khai khỏi chính quyền trung ương và lập nên Vương triều thứ Mười bốn của người Canaan.
Người Hyksos bắt đầu xuất hiệu dưới Vương triều của Sobekhotep IV, vào khoảng năm 1720 TCN và kiểm soát thị trấn Avaris (ngày nay là Tell el-Dab'a/Khata'na), họ còn chinh phục vương triều thứ Mười bốn. Sau đó vào khoảng năm 1650 TCN người Hyksos, có thể dưới sự lãnh đạo của Salitis đã chinh phạt Memphis qua đó chấm dứt Vương triều thứ Mười ba. Khoảng trống quyền lực được tạo ra ở Thượng Ai Cập sau khi Vương triều thứ Mười ba sụp đổ đã dẫn tới sự ra đời vương triều thứ Mười sáu độc lập ở Thebes, nhưng cũng được không bao lâu sau thì lại bị người Hyksos tấn công và tiêu diệt.
Sau khi người Hyksos rút khỏi Thượng Ai Cập, gia tộc lãnh chúa tại Thebes đã tự thiết lập vương triều của họ, Vương triều thứ Mười bảy ra đời. Vương triều này tiếp tục cuộc chiến tranh chống lại người Hyksos dưới Vương triều Seqenenre Tao, Kamose và kết thúc dưới Vương triều Ahmose, vị pharaon đầu tiên của thời kỳ tân vương quốc.
Vương triều thứ Mười ba
Vương triều thứ Mười ba (theo Danh sách vua Turin) cai trị từ năm 1802- năm 1649 TCN và kéo dài 153 hoặc 154 năm theo Manetho. Bảng này nên được đối chiếu với các vị vua đã biết thuộc Vương triều thứ Mười ba.
Sáng lập Vương triều 13. Thời gian cai trị của ông được chứng thực. Được gọi là Sobekhotep I theo giả thiết hiện hành, ông còn được gọi là Sobekhotep II theo các nghiên cữu cũ.
Vương triều thứ Mười bốn là Vương triều độc lập ở phía đông khu vực đồng bằng châu thổ với căn cứ tại Avaris. Vương triều này kéo dài từ năm 1805 TCN hoặc 1710 TCN đến khoảng năm 1650 TCN. Nhiều vị vua Vương triều thứ Mười bốn có tên Semite và được cho là có nguồn gốc từ Canaan.
Có thể thuộc Vương triều thứ Mười bốn, 15 hoặc chư hầu của người Hyksos.
Vương triều thứ Mười lăm
Vương triều thứ Mười lăm được những người Hyksos đến từ khu vực Lưỡi liềm phì nhiêu dựng nên, họ đã từng cai trị toàn bộ khu vực thung lũng sông Nile trong một thời gian ngắn, Vương triều của họ kéo dài từ năm 1674-1535 trước Công nguyên.
Thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai có thể bao gồm cả Vương triều Abydos tồn tại từ năm 1650 TCN cho đến năm 1600 TCN. Vương triều này gồm 4 vị vua nhưng chưa xác định được niên đại của họ.
Lăng mộ được khám phá năm 2014. Có thể là Woser[...]re trong bản danh sách Turin.
Vương triều thứ Mười sáu
Vương triều thứ Mười sáu do một Vương triều bản địa ở Thebes lập lên sau sự sụp đổ của Vương triều thứ Mười ba ở Memphis vào khoảng năm 1650 TCN và cuối cùng bị người Hyksos của Vương triều thứ Mười lăm chinh phạt vào năm 1580 TCN. Vương triều thứ Mười sáu chỉ kiểm soát vùng thượng Ai Cập.
Tên
Ảnh
Trị vì
Ghi chú
—
Tên vị vua đầu tiên bị mất trong danh sách vua Turin, và không phục hồi được
Bằng các hoạt động quân sự, các vị vua của Tân vương quốc đã mở rộng lãnh thổ Ai Cập tới đỉnh cao của nó, bao gồm Nubia ở phía Nam và những vùng lãnh thổ rộng lớn ở Cận đông. Quân đội Ai Cập đã giao tranh với quân đội Hittite để tranh giành quyền kiểm soát vùng đất Syria ngày nay.
Hai vị pharaon nổi tiếng của thời kỳ này đó là Akhenaten, còn được biết tới với tên gọi khác là Amenhotep IV, thờ độc thần Aten. Và Ramesses II người đã cố gắng tái kiểm soát lại vùng đất Israel/Palestine, Lebanon và Syria ngày nay. Công cuộc tái chinh phục của ông đã dẫn tới trận chiến Qadesh và đích thân ông đã chỉ huy quân Ai Cập giao chiến với quân Hittite do vua Muwatalli II lãnh đạo.
Được biết đến là người phụ nữ thứ Hai cai trị Ai Cập. Có thể đã cùng cai trị với người cháu của bà là Thutmose III trong đầu thời kỳ trị vì. Bà còn nổi tiếng với chuyến thám hiểm tới xứ Punt được miêu tả lại trong ngôi đền an táng tại Deir el-Bahari. Bà cũng còn cho xây dựng nhiều ngôi đền và tượng đài. Thời kỳ bà cai trị là giai đoạn đỉnh cao quyền lực của Ai Cập. Bà là con gái của Thutmose I và Chính cung của người anh trai Thutmose II.
Con trai của Thutmose II. Có thể trị vì cùng Hatshepsut, người cô đồng thời là mẹ kế của ông trong thời kỳ đầu cai trị. Ông nổi tiếng với việc mở rộng lãnh thổ tới Levant và Nubia. Dưới thời trị vì của ông, Đế chế Ai Cập cổ đại có lãnh thổ rộng lớn nhất. Ông cai trị trong giai đoạn đỉnh cao quyền lực của Ai Cập. Cuối thời kỳ trị vì của mình ông đã xóa bỏ mọi dấu tích về Hatshepsut trong các ngôi đền và tượng đài.
Cha của Akhenaten và ông nội của Tutankhamun. Ông cai trị vào giai đoạn đỉnh cao của quyền lực Ai Cập. Ông còn xây dựng nhiều ngôi đền và tượng đài, trong đó có ngôi đền an táng lớn của mình. Ông là con của Thutmose IV.
Người sáng lập nên thời kỳ Amarna trong đó ông thay đổi tôn giáo của đất nước từ đa thần giáo Ai Cập cổ đại thành tôn giáo độc thần, tập trung vào việc thờ cúng thần Aten, với hình tượng đĩa mặt trời. Ông cho dời đô về Aketaten. Ông còn là người con trai thứ hai của Amenhotep III. Ông đổi tên từ Amenhotep (Amun là hài lòng) thành Akhenaten (Sức mạnh của Aten) để phản ánh sự thay đổi tôn giáo của mình.
Trị vì cùng với Akhenaten trong những năm cuối Vương triều của ông ta. Không rõ Smenkhare có thực sự cai trị hay không. Danh tính và cả giới tính của Smenkhare là không chắc chắn. Một số cho rằng ông là con của Akenhaten, có thể là Tutankhamun, một số khác suy đoán rằng Smenkhare có thể là Nefertiti hoặc Meritaten. Có thể được kế vị hoặc đồng nhất với nữ pharaon có tên là Neferneferuaten.
Thường được cho là con của Akhenaten và giống như là đã phục hồi lại đa thần giáo Ai Cập cổ đại. Ông đổi tên từ Tutankhaten thành Tutankhamun nhằm phản ánh sự thay đổi tôn giáo từ thờ độc thần Aten quay về với tôn giáo truyền thống, trong đó Amun là vị thần chính. Ông lên ngôi khi mới khoảng 8 hoặc 9 tuổi và qua đời ở độ tuổi 18 hoặc 19. Ông được đặt cho biệt danh là "vị vua thiếu niên".
Là Đại tể tướng dưới Vương triều Tutankhamun và cũng là vị đại thần quan trọng dưới Vương triều các vị vua Akhenaten và Smenkhkare. Có thể là anh trai của Tiye, Chính cung của Amenhotep III, và cũng có thể là cha của Nefertiti, vợ của Akhenaten. Ông được tin là xuất thân từ giới quý tộc, nhưng không thuộc hoàng gia. Ông đã kế vị Tutankhamun do ông ta không có người kế vị.
Xuất thân từ tầng lớp thường dân. Ông là một tướng quân trong thời kỳ Amarna. Dưới Vương triều của mình, ông đã phá hủy toàn bộ các hình ảnh cũng như các công trình có liên quan đến những vị Pharaon thời kỳ Armana. Ông đã kế vị Ay bất chấp Nakhtmin được coi là người thừa kế ngai vàng.
Vương triều thứ Mười chín
Vương triều thứ Mười chín cai trị trong khoảng 1292-1186 TCN với vị vua nổi tiếng là Rameses II.
Tiếp tục mở rộng lãnh thổ Ai Cập cho tới khi đạt tới sự cân bằng với đế chế Hittite sau trận chiến Kadesh vào năm 1275 TCN, tiếp đó là ký kết hiệp ước hòa bình nổi tiếng giữa Ai Cập-Hittite vào năm 1258 TCN.
Không liên quan tới Seti II, Siptah, hoặc Tausret. Có thể đã cướp ngôi từ Tausret. Không công nhận Siptah hoặc Tausret là người cai trị hợp pháp. Có thể là một thành viên trong một nhành nhỏ của hoàng tộc Ramesses. Còn được gọi là Setnakt.
Pharaon ít được biết đến, trị vì trong thời gian 1 năm. Được đồng nhất với hoàng tử Sethiherkhepeshef II. Con của Ramesses III. Em của Ramesses IV và Ramesses VI. Chú của Ramesses V và Ramesses VII. Ông là người duy nhất thuộc Vương triều thứ Hai mươi vẫn chưa tìm thấy lăng mộ.
Có thể là con của Ramesses X. Trong nửa giai đoạn sau Vương triều của ông, Đại tư tế của Amun Herihor đã kiểm soát toàn bộ miền nam từ Thebes, giới hạn quyền lực của ông ở Hạ Ai Cập. Ông sau đó được Smendes kế vị ở phía Bắc.
Thời kỳ chuyển tiếp thứ Ba
Thời kỳ chuyển tiếp thứ Ba (1077-732 trước Công nguyên) đánh dấu sự kết thúc của Tân vương quốc sau khi đế chế Ai Cập sụp đổ. Một số Vương triều của người Lybia đã cai trị trong thời gian này, thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ Lybia.
Vương triều thứ Hai mươi mốt
Vương triều thứ Hai mươi mốt đóng đô tại Tanis. Về mặt lý thuyết Vương triều thứ Hai mươi mốt cai trị toàn bộ Ai Cập nhưng thực tế họ chỉ kiểm soát vùng Hạ Ai Cập. Vương triều này kéo dài từ năm 1069-943 TCN.
Con của Pinedjem I, Đại tư tế của Amun. Cai trị từ 40 tới 51 năm. Ông nổi tiếng với lăng mộ tại Tanis. Ông còn được goi là "Pharaon bạc" do ông được chôn cất trong một cỗ quan tài bằng bạc đặt trong lăng mộ của mình. Một trong những vị vua quyền lực nhất của Vương triều.
Không dõ nguồn gốc. Ông đã cho xây dựng nhiều công trình khắp nơi trong thời kỳ chuyển tiếp thứ Ba. Một trong những vị vua quyền lực nhất của Vương triều.
Mặc dù không phải là các pharaon, các Đại tư tế của Amun tại Thebes lại là người cai trị thực tế của Thượng Ai Cập trong Vương triều thứ Hai mươi mốt và 22. Tên của họ được khắc trong đồ hình và chôn cất trong các lăng mộ hoàng gia.
Không được công nhận là một Vương triều, người Libu là nhóm dân tộc du mục từ phía Tây (Libya) chiếm đóng và kiểm soát phía Tây đồng bằng sông Nile từ năm 805-732 TCN.
Vương triều thứ Hai mươi tư là Vương triều ngắn ngủi trong lịch sử nằm ở phía Tây đồng bằng sông Nile (Sais). Vương triều này chỉ có 2 vị vua cai trị từ 732-720 TCN.
Thời Hậu nguyên kéo dài từ năm 732 TCN cho đến khi Ai Cập trở thành tỉnh thuộc La Mã vào năm 30 TCN. Bao gồm các thời kỳ cai trị của người Nubia, Ba Tư, và Macedonia.
Vương triều thứ Hai mươi lăm
Người Nubia xâm chiếm Hạ Ai Cập và lên ngôi vua của Ai Cập dưới Vương triều Piye mặc dù họ đã kiểm soát vùng Thượng Ai Cập và Thebes vào giai đoạn đầu Vương triều của Piye. Piye chinh phạt Hạ Ai Cập và thiết lập Vương triều thứ Hai mươi lăm cai trị tới năm 656 TCN.
Ông là vị vua quyền lực cuối cùng của Ai Cập trước cuộc chinh phạt của người Ba Tư. Theo nhà sử học Hy Lạp Herodotus, ông có nguồn gốc thường dân. Cha của Psamtik III.
Con của Amasis II. Cai trị 6 tháng trước đó bị người Ba Tư đánh bại trong trận Pelusium vào năm 525 TCN và sau đó bị xử tử vì cố gắng khởi nghĩa.
Vương triều thứ Hai mươi bảy (thời kỳ Ba Tư thứ nhất)
Ai Cập bị đế quốc Ba Tư chinh phạt vào năm 525 TCN và sáp nhập vào Ba Tư tới năm 404 TCN. Các shahenshahs của Vương triều Achaemenes được công nhận là pharaon trong thời kỳ này.
Còn được biết là Nekhtnebef. Ông đã lật đổ và có khả năng là đã sát hại Nefaarud II, sau đó bắt đầu Vương triều pharaon cuối cùng của người bản địa. Cha của Teos.
Vương triều của Hy Lạp thứ hai, nhà Ptolemaios đã cai trị từ năm 305 TCN đến khi Ai Cập trở thành một tỉnh của La Mã vào năm 30 TCN (có nhiều niên đại với thời gian chồng chéo lên nhau, có nghĩa là đã có một giai đoạn đồng trị vì). Thành viên nổi tiếng nhất của Vương triều này là Cleopatra VII, còn được gọi giản đơn là Cleopatra, từng là người tình của Julius Caesar, sau khi Julius Caesar qua đời thì bà đã cưới Mark Antony và có hai người con với ông. Cleopatra đã cố gằng xây dựng mối liên minh giữa Ai Cập và La Mã nhưng với việc Julius Caesar bị ám sát và thất bại của Mark Antony đã khiến cho kế hoạch của bà sụp đổ. Caesarion (Ptolemaios XV Philopator Philometor Caesar) là vị vua cuối cùng thuộc Vương triều Ptolemaios của Ai Cập, ông đã cùng cai trị với mẹ mình là Cleopatra VII của Ai Cập từ ngày 2 tháng 9 năm 47 TCN. Ông là con trai cả của Nữ hoàng Cleopatra VII, và có thể là con trai duy nhất của Julius Caesar. Sau cái chết của Cleopatra VII vào ngày 12 tháng 8, năm 30 TCN, ông trở thành người cai trị duy nhất. Sau đó ông bị hành quyết theo lệnh của Octavian vào ngày 23 tháng 8, năm 30 TCN, Ai Cập tiếp đó bị sáp nhập thành một tỉnh La Mã.
Đồng cai trị với vua cha là Ptolemaios XII, chị gái và là vợ của Ptolemaios XIII, chị gái và là vợ của Ptolemaios XIV, cùng cai trị với con trai bà là Ptolemaios XV; còn được gọi là Cleopatra
Con trai của Cleopatra VII; cai trị với Cleopatra lúc 3 tuổi. Ông là vị vua Ai Cập cổ đại cuối cùng trước khi người La Mã xâm lược.
La Mã
Cleopatra có cuộc tình với nhà độc tài của La Mã Julius Caesar và thống chế La Mã Mark Antony (Marcus Antonius). Sau khi Marcus Antonius bị sát hại bởi Octavian (sau này là hoàng đế Augustus) bà tự tử. Và Ai Cập sáp nhập thành tỉnh của La Mã từ năm 30 TCN. Các Hoàng đế La Mã tiếp theo vẫn tiếp tục sử dụng danh hiệu Pharaon cho sự cai trị của mình tại Ai Cập. Hoàng đế La Mã cuối cùng được trao tước hiệu Pharaon là Maximinus Daia (trì vì từ 311–313 CN). Danh sách Hoàng đế La Mã sử dụng danh hiệu pharaon và bao gồm cả Decius, xem tại Danh sách Hoàng đế La Mã.
^ abClayton 1995, p. 217. "Although paying lip-service to the old ideas and religion, in varying degrees, pharaonic Egypt had in effect died with the last native pharaoh, Nectanebo II in 343 BC"
^Jochem Kahl: Ra is my Lord: Searching for the Rise of the Sun God at the Dawn of Egyptian History. Harrassowitz, Wiesbaden 2007, ISBN 3-447-05540-5, page 12–14 & 74.
^ abDarell D. Baker: The Encyclopedia of the Pharaohs: Volume I – Predynastic to the Twentieth Dynasty 3300–1069 BC, Stacey International, ISBN 978-1-905299-37-9, 2008
^Toby Wilkinson, Early Dynastic Egypt, Routledge, 1999, pp.83 & 95
^Toby Wilkinson, Royal Annals of Ancient Egypt, pp.79 & 258
^Christopher Bronk Ramsey et al., [url="http://dx.doi.org/10.1126/science.1189395"]Radiocarbon-Based Chronology for Dynastic Egypt[/url], [i]Science[/i] ngày 18 tháng 6 năm 2010: Vol. 328. no. 5985, pp. 1554 - 1557
^Miroslav Verner (2000): Who was Shepseskara, and when did he reign?, in: Miroslav Bárta, Jaromír Krejčí (editors): Abusir and Saqqara in the Year 2000, Academy of Sciences of the Czech Republic, Oriental Institute, Prague, ISBN 80-85425-39-4, p. 581–602, available onlineLưu trữ 2011-02-01 tại Wayback Machine.
^Gustave Jéquier, Maṣlaḥat al-Āthār (1993): Les pyramides des reines Neit et Apouit (bằng tiếng Pháp), Cairo: Institut français d’archéologie orientale, OCLC 195690029, see plate 5.
^Percy Newberry (1943): Queen Nitocris of the Sixth Dynasty, in: The Journal of Egyptian Archeology, vol. 29, pp=51–54
^Gae Callender: Queen Neit-ikrety/Nitokris, in: Miroslav Barta, Filip Coppens, Jaromic Krecji (editors): Abusir and Saqqara in the year 2010/1, Prague: Czech Institute of Egyptology, Faculty of Arts, Charles University, 2011, ISBN 978-8-07-308384-7, see pp. 249–250
^Labib Habachi: King Nebhepetre Menthuhotep: his monuments, place in history, deification and unusual representations in form of gods, in: Annales du Service des Antiquités de l'Égypte 19 (1963), pp. 16–52
^Josef Wegner, The Nature and Chronology of the Senwosret III–Amenemhat III Regnal Succession: Some Considerations based on new evidence from the Mortuary Temple of Senwosret III at Abydos, JNES 55, Vol.4, (1996), pp.251
^ abcdefghijklmnopqrstuvwxyzaaabacadaeafagahaiajakalK.S.B. Ryholt, The Political Situation in Egypt during the Second Intermediate Period, c.1800-1550 BC, Carsten Niebuhr Institute Publications, vol. 20. Copenhagen: Museum Tusculanum Press, 1997
^ abThomas Schneider: Lexikon der Pharaonen, Albatros, Düsseldorf 2002, ISBN 3-491-96053-3
^Thomas Schneider: Lexikon der Pharaonen, Albatros, 2002
^ abcdefghijklK.S.B. Ryholt: The Political Situation in Egypt during the Second Intermediate Period, c.1800-1550 BC, Carsten Niebuhr Institute Publications, vol. 20. Copenhagen: Museum Tusculanum Press, 1997
^ abMarcel Marée: A sculpture workshop at Abydos from the late Sixteenth or early Seventeenth Dynasty, in: Marcel Marée (editor): The Second Intermediate period (Thirteenth-Seventeenth Dynasties), Current Research, Future Prospects, Leuven, Paris, Walpole, MA. 2010 ISBN 978-90-429-2228-0. p. 247, 268
^ abcdJürgen von Beckerath: Chronologie des pharaonischen Ägyptens, Münchner Ägyptologische Studien 46. Mainz am Rhein, 1997
^Jürgen von Beckerath: Handbuch der ägyptischen Königsnamen, Münchner ägyptologische Studien 49, Mainz 1999.
^Wolfgang Helck, Eberhard Otto, Wolfhart Westendorf, Stele - Zypresse: Volume 6 of Lexikon der Ägyptologie, Otto Harrassowitz Verlag, 1986, Page 1383
^ abPlaced in this dynasty only for chronological reasons, as he was not related to the Achaemenids.
^“Nakhthorhebyt”. Digital Egypt for Universities. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2011.
Tham khảo
J. H. Breasted, History of Egypt from the Earliest Time to the Persian Conquest, 1909
J. Cerny, 'Egypt from the Death of Ramesses III to the End of the Twenty-First Dynasty' in The Middle East and the Aegean Region c.1380-1000 BC, Cambridge University Press, ISBN 0-521-08691-4
Clayton, Peter A. (1995). Chronicle of the Pharaohs: The Reign-by-Reign Record of the Rulers and Dynasties of Ancient Egypt. The Chronicles Series . London: Thames and Hudson. ISBN978-0-500-05074-3.
Dodson, Aidan and Hilton, Dyan.<chú thích>The Complete Royal Families of Ancient Egypt</chú thích>. Thames & Hudson. 2004. ISBN 0-500-05128-3
Sir Alan Gardiner Egyptian Grammar: Being an Introduction to the Study of Hieroglyphs, Third Edition, Revised. London: Oxford University Press, 1964. Excursus A, pp. 71–76.
Nicolas Grimal, A History of Ancient Egypt, (Blackwell Books: 1992)
Murnane, William J. Ancient Egyptian Coregencies, Studies in Ancient Oriental Civilization. No. 40. The Oriental Institute of the University of Chicago, 1977
Michael Rice, Who's Who in Ancient Egypt, Routledge 1999
Ryholt, Kim & Steven Bardrum. 2000. "The Late Old Kingdom in the Turin King-list and the Identity of Nitocris." Zeitschrift für ägyptische Sprache und Altertumskunde127
Shaw, Ian. The Oxford History of Ancient Egypt., Oxford University Press, 2000.
Shaw, Garry. The Pharaoh, Life at Court and on Campaign, Thames and Hudson, 2012.
Toby A. H. Wilkinson, Early Dynastic Egypt, Routledge 1999, ISBN 0-415-18633-1